Kính thưa toàn thể nhân dân xã Xuân Hòa!
Theo số liệu báo cáo của các cơ quan quản lý chuyên ngành chăn nuôi và thú y địa phương, từ đầu năm 2025 đến nay cả nước đã xuất hiện trên 514 ổ dịch Dịch tả heo Châu Phi (DTHCP) tại 28/34 tỉnh, thành phố; số heo mắc bệnh, chết và bị tiêu hủy trên 30.000 con. Hiện nay, cả nước có 248 ổ dịch tại 20 tỉnh, thành phố (sau sáp nhập) chưa qua 21 ngày. Nguy cơ dịch bệnh DTHCP có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là tại các địa phương có tổng đàn lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến ngành chăn nuôi heo cả nước, nguồn cung thực phẩm và môi trường. Riêng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, từ đầu năm đến nay đã xảy ra 15 ổ dịch bệnh DTHCP, tiêu hủy 3.858 con heo bệnh, chết (tỉnh Đồng Nai cũ: 02 ổ dịch tại 02 xã/ thị trấn, tiêu hủy 37 con heo bệnh, chết; tỉnh Bình Phước cũ: 08 ổ dịch tại 08 xã/ thị trấn, tiêu hủy 3.111 con heo bệnh, chết; tỉnh Đồng Nai mới: 05 ổ dịch (11 hộ chăn nuôi) tại 05 xã/phường: Phước Sơn, Hưng Phước, An Lộc, Thiện Hưng, Nam Cát Tiên, đã tiêu hủy 710 con heo bệnh, chết).
Để chủ động ngăn chặn bệnh Dịch tả heo Châu phi xâm nhập, bùng phát và lây lan trên địa bàn xã, UBND xã Xuân Hòa thông báo, hướng dẫn các biện kỹ thuật phòng, chống bệnh Dịch tả heo châu Phi xâm nhập, tái phát, lây lan trên địa bàn xã như sau:
1. Đặc điểm của bệnh Dịch tả heo châu Phi: Bệnh Dịch tả heo châu Phi là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút gây ra. Bệnh lây lan, gây bệnh mọi lứa tuổi và ở mọi loài heo (cả heo nhà và heo hoang dã). Bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng với tỷ lệ chết cao lên đến 100%. Vi rút gây bệnh Dịch tả heo Châu Phi có sức đề kháng cao với môi trường. Heo khỏi bệnh có khả năng mang vi rút trong thời gian dài, có thẻ là vật chủ mang trùng suốt đời, do vậy khó có thể loại trừ được bệnh nếu xảy ra bệnh Dịch tả heo Châu Phi. Vi rút dịch tả heo Châu Phi có trong máu, cơ quan, dịch bài tiết từ heo nhiễm bệnh. Vi rút dịch tả heo châu Phi có sức đề kháng cao, có khả năng chịu được ở nhiệt độ thấp: ở trong thịt heo sống hoặc nấu ở nhiệt độ không cao vi rút có thể tồn tại được 3 đến 6 tháng; ở nhiệt độ 56 độ C tồn tại được 70 phút; ở nhiệt độ 60 độ C tồn tại được 20 phút; trong máu đã phân hủy tồn tại được 5 tuần; trong máu khô được 70 ngày; trong phân ở nhiệt độ phòng được 11 ngày; trong máu ở nhiệt độ 4 độ C được 18 tháng; trong thịt dính xương ở nhiệt độ 39 độ c được 150 ngày; trong giăm bông được 140 ngày. Vi rút Dịch tả Châu Phi lây nhiễm qua đường hô hấp và tiêu hóa, thông qua sự tiếp xúc trực tiếp hoặc gian tiếp với các vật thể nhiễm vi rút như: Chuồng trại, Phương tiện vận chuyển, dụng cụ, đồ dùng, quần áo nhiễm vi rút và thức ăn thừa của heo nhiễm bệnh hoặc chuột, ruồi muỗi...
2. Biểu hiện của bệnh Dịch tả heo Châu Phi Heo bị nhiễm DTHCP có thể xuất hiện các triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh cụ thể:
- Thể quá cấp tính (do vi rút có độc lực cao gây ra): Heo bị chết nhanh mà không có triệu chứng bệnh.
- Thể cấp tính (do vi rút có độc lực cao gây ra): Heo sốt cao (40,5-42°C), bỏ ăn, lười vận động, ủ rũ, heo thích nằm chỗ có bóng râm hoặc gần nước. Heo có biểu hiện đau vùng bụng, lưng cong, di chuyển bất thường, một số vùng da trắng chuyển sang màu đỏ, đặc biệt là ở vành tai, đuôi, cẳng chân, da phần dưới vùng ngực và bụng, có thể có màu sẫm xanh tím. Trong 1-2 ngày trước khi con vật chết, có triệu chứng thần kinh, di chuyển không vững, nhịp tim nhanh, thở gấp, khó thở hoặc có bọt lẫn máu ở mũi, viêm mắt, nôn mửa, tiêu chảy đôi khi lẫn máu hoặc có thể táo bón, phân cứng đóng viên có kích thước nhỏ, có chất nhầy và máu. Heo sẽ chết trong vòng 6-13 ngày hoặc có thể kéo dài đến 20 ngày. Heo mang thai có thể sẩy thai ở mọi giai đoạn. Tỷ lệ chết cao lên tới 100%.
- Thể á cấp tính (do vi rút có độc tính trung bình gây ra): Heo sốt nhẹ hoặc sốt lúc tăng lúc giảm, giảm ăn, sụt cân, ủ rũ, khó thở, ho có đờm, phổi có thể bội nhiễm vi khuẩn kế phát, viêm khớp, vận động khó khăn; heo mang thai sẽ sảy thai, heo có thể bị chết trong vòng 15-45 ngày, tỷ lệ chết từ 30-70%.
- Thể mãn tính (do vi rút có độc tính trung bình hoặc thấp gây ra): Heo bị giảm cân, sốt, có triệu chứng hô hấp, hoại tử da, hoặc viêm loét da mạn tính, viêm khớp. Triệu chứng bệnh có thể kéo dài từ 2-15 tháng, có tỷ lệ chết thấp.
3. Các biện pháp phòng chống bệnh dịch tả heo châu phi Thực hiện các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi heo là biện pháp phòng bệnh DTHCP hiệu quả nhất hiện nay, trong đó người chăn nuôi heo cần thực hiện:
3.1. Đối với chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi heo - Kiểm soát chặt chẽ người và động vật ra vào khu vực chăn nuôi; chuồng nuôi phải dễ thực hiện các biện pháp vệ sinh, sát trùng, tiêu độc, phòng bệnh. Có lưới bao xung quanh chuồng nuôi và biện pháp khác ngăn chặn côn trùng và vật chủ trung gian truyền bệnh (chuột, chim, ruồi, muỗi,…).
- Tại lối ra vào chuồng nuôi phải bố trí hố khử trùng, thay bảo hộ lao động cho người ra, vào khu vực chăn nuôi.
- Nên có ô chuồng nuôi cách ly để nuôi heo mới nhập hoặc heo bị bệnh.
- Có khu vực thu gom và xử lý chất thải. Chất thải chăn nuôi phải được thu gom về khu vực cuối chuồng nuôi để xử lý hoặc để xa khu chuồng nuôi, xa nơi cấp nước. Đường thoát nước thải từ chuồng nuôi đến khu xử lý chất thải đảm bảo kín. Nước thải ô chuồng nào thoát riêng ô chuồng đó ra đường thoát nước chung. Chất thải rắn phải được thu gom hàng ngày, chuyển đến nơi tập trung và xử lý bằng nhiệt, hoá chất hoặc bằng phương pháp sinh học. Chất thải lỏng phải được dẫn trực tiếp từ các chuồng nuôi đến khu xử lý bằng đường thoát riêng; Chất thải lỏng phải được xử lý bằng hoá chất hoặc bằng phương pháp sinh học phù hợp.
- Nếu có điều kiện thì nuôi theo phương pháp cách ô (mỗi ô chuồng có khoảng trống khoảng 1m) để giảm thiểu heo giữa các ô chuồng tiếp xúc với nhau.
- Không sử dụng chung dụng cụ chăn nuôi giữa các chuồng.
3.2. Đối với heo giống.
Heo được nhập về nuôi phải có nguồn gốc rõ ràng, khoẻ mạnh. Trước khi nhập đàn, nuôi cách ly ít nhất 2 tuần.
3.3. Quy trình chăn nuôi
- Áp dụng phương thức quản lý đàn heo "cùng vào - cùng ra" theo thứ tự ưu tiên: dãy chuồng, ô chuồng.
- Sử dụng thức ăn có nguồn gốc rõ ràng, còn hạn sử dụng, đảm bảo chất lượng và an toàn. Trường hợp sử dụng thức ăn tận dụng phải được xử lý nhiệt trước khi cho ăn. Không sử dụng thức ăn thừa trong máng ăn của đàn heo đã xuất chuồng và thức ăn của đàn heo đã bị dịch bệnh cho đàn heo mới.
- Nguồn nước cho chăn nuôi heo phải đảm bảo an toàn.
- Nên bổ sung chế phẩm sinh học trong thức ăn để tăng khả năng tiêu hóa, sức đề kháng cho heo.
- Sử dụng các chế phẩm sinh học trong nước uống, độn chuồng và định kỳ phun sương trong chuồng nuôi theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
3.4. Vệ sinh, tiêu độc và kiểm soát người ngoài ra, vào khu vực chuồng nuôi
- Hạn chế tối đa người ngoài ra, vào khu vực chuồng nuôi. Trước và sau khi vào, ra khu chăn nuôi phải thay bảo hộ lao động, sát trùng tay, nhúng ủng hoặc giầy, dép vào hố khử trùng.
- Bổ sung hoặc thay hàng ngày thuốc sát trùng tại các hố sát trùng ở cổng ra vào khu chăn nuôi, chuồng nuôi.
- Định kỳ phun thuốc sát trùng xung quanh khu chăn nuôi, chuồng nuôi ít nhất 2 lần/tuần; phun thuốc sát trùng trong chuồng nuôi ít nhất 1 lần/tuần. Định kỳ phát quang bụi rậm, khơi thông và vệ sinh cống rãnh ngoài chuồng nuôi ít nhất 2 lần/tháng.
- Vệ sinh máng ăn, máng uống hàng ngày. Thiết bị, dụng cụ và phương tiện phục vụ trong chăn nuôi phải được tiêu độc khử trùng thường xuyên.
- Sau mỗi đợt nuôi phải làm vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng, dụng cụ chăn nuôi và để trống chuồng ít nhất 7 ngày trước khi đưa heo mới vào nuôi.
- Kiểm soát phương tiện vận chuyển, trang thiết bị, dụng cụ chăn nuôi: Các phương tiện vận chuyển trước và sau khi vào chuồng nuôi phải được vệ sinh, tiêu độc, khử trùng; Không để phương tiện vận chuyển của thương lái, phương tiện vận chuyển thức ăn chăn nuôi đến khu vực nuôi heo. Chỉ sử dụng xe nội bộ của khu chuồng nuôi để vận chuyển; Nên có phương tiện vận chuyển chuyên dụng, trường hợp dùng chung thì phải vệ sinh, tiêu độc, khử trùng trước khi sử dụng.
3.5. Phòng chống dịch bệnh
- Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi là giải pháp phòng bệnh hiệu quả nhất và quan trọng nhất; thường xuyên vệ sinh, sát trùng, tiêu độc tại chuồng trại, vùng chăn nuôi heo, các phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi, điểm buôn bán, giết mổ heo và các sản phẩm của heo bằng vôi bột hoặc hóa chất và vệ sinh cá nhân những người tham gia chăn nuôi; hằng ngày thực hiện vệ sinh, khử trùng tiêu độc sau mỗi ca giết mổ heo.
- Thực hiện tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin cho heo theo quy định của cơ quan thú y, đặc biệt tiêm phòng bổ sung các bệnh truyền nhiễm có nguy cơ cao trên heo như: bệnh Dịch tả heo Châu Phi, Lở mồm long móng, Tai xanh… (Hiện nay đã có 2 loại vắc xin DTLCP (NAVET-ASFVAC do Công ty Cổ phần thuốc thú y Trung ương NAVETCO nghiên cứu, sản xuất và AVAC ASF LIVE do Công ty Cổ phần AVAC Việt Nam nghiên cứu, sản xuất) được đăng ký và cấp Giấy chứng nhận lưu hành. Ngày 24/7/2023, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Công văn số 4870/BNN-TY về việc sử dụng vắc xin phòng bệnh DTHCP, theo đó cơ quan chuyên môn thú y phối hợp với chính quyền địa phương, Công ty Cổ phần thuốc thú y Trung ương NAVETCO và Công ty Cổ phần AVAC Việt Nam xem xét, triển khai sử dụng vắc xin phòng bệnh DTLCP).
- Nghiêm cấm mọi hình thức vận chuyển, buôn bán, giết mổ, tiêu thụ heo, sản phẩm của heo không rõ nguồn gốc, heo bị bệnh, kể cả hình thức cho, tặng của các tổ chức, cá nhân.
- Tuân thủ các quy định về quản lý, vận chuyển, kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y.
- Tăng cường theo dõi, giám sát lâm sàng đối với các đàn heo; kịp thời phát hiện, cách ly và lấy mẫu xét nghiệm đối với heo bị bệnh, nghi bị bệnh.
- Đối với cơ sở giết mổ, chế biến thịt heo phải thực hiện heo đưa vào giết mổ phải có nguồn gốc rõ ràng, nghiêm cấm không được giết mổ heo khi nghi ngờ heo có biểu hiện bị bệnh phải dừng ngay việc giết mổ thông tin cho cán bộ thôn, cán bộ thú y xã biết để kiểm tra xác minh và có biện pháp xử lý kịp thời. - Không giấu dịch, thông tin kịp thời cho nhân viên thú y xã, chính quyền khi nào phát hiện heo, các sản phẩm heo nghi bị bệnh, nghi nhiễm mầm bệnh hoặc khi được vận chuyển nhập lậu, nghi nhập lập. Khoanh vùng dịch, vùng đệm để áp dụng các giải pháp kỹ thuật cụ thể và phù hợp cho từng vùng.
- Không điều trị heo bệnh, nghi mắc bệnh dịch tả heo Châu Phi. Trường hợp bà con chăn nuôi nghi ngờ heo mắc bệnh DTHCP, cần báo cáo kịp thời đến cơ quan Thú y gần nhất để được hướng dẫn xử lý.
Trong những năm gần đây, do biến đổi của khí hậu, tình hình thiên tai, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm diễn biến hết sức phức tạp; ngành chăn nuôi đang phát triển nên việc lưu thông mua, bán, vận chuyển động vật, sản phẩm từ động vật được mở rộng làm tăng nguy cơ lây lan và bùng phát các loại dịch bệnh nguy hiểm như bệnh Dịch tả heo Châu Phi, Viêm da nổi cục ở đàn trâu, bò; cúm gia cầm, tai xanh, lở mồm long móng, tụ huyết trùng...
Đặc biệt, thời gian gần đây tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm đang tái bùng phát trở lại tại nhiều địa phương trên cả nước, bên cạnh đó giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao gây không ít khó khăn cho người chăn nuôi.
Để chủ động ngăn chặn, phòng, chống hiệu quả các loại dịch bệnh ở đàn gia súc, gia cầm, giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm các loại dịch bệnh mới, đảm bảo chăn nuôi phát triển bền vững, bảo vệ sức khỏe người dân, đồng thời thực hiện nghiêm Công văn chỉ đạo của UBND tỉnh Đồng Nai về việc tiếp tục triển khai tuyên truyền thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm.
Việc phòng bệnh cho vật nuôi hiện nay là một điều vô cùng quan trọng và nó trở thành một công tác không thể thiếu trong quy trình phát triển chăn nuôi. Ở đâu còn bệnh truyền nhiễm lưu hành thì ở đó sản phẩm chăn nuôi sẽ bị đe dọa ngừng lưu thông, vậy sử dụng vắc xin phòng bệnh cho vật nuôi là biện pháp tốt nhất có hiệu quả nhất để đảm bảo cho nền chăn nuôi phát triển bền vững và an toàn. Để làm tốt công tác tiêm phòng và phòng chống dịch bệnh động vật sẽ giúp cho người chăn nuôi tránh được những rủi do của các dịch, bệnh trên động vật có khả năng lây sang người như cúm gia cầm, bệnh dại,
Thông tin kịp thời và chính xác về diễn biến tình hình dịch bệnh; các biện pháp phòng, chống đối với từng đối tượng. Hướng dẫn người chăn nuôi chủ động thực hiện các biện pháp phòng bệnh là chính; áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong chăn nuôi an toàn sinh học; vệ sinh, sát trùng bằng vôi bột, hóa chất khu vực chuồng nuôi và khu vực xung quanh có nguy cơ cao; có biện pháp ngăn chặn các loài trung gian truyền bệnh xâm nhập vào chuồng nuôi, phun thuốc sát trùng, thuốc diệt các loài côn trùng; bổ sung chất dinh dưỡng, khoáng chất để nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi; tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin cho vật nuôi theo quy định…Trường hợp phát hiện gia súc, gia cầm nghi ngờ mắc các bệnh truyền nhiễm, người dân cần chủ động báo cáo kịp thời với UBND xã, Ban quản lý ấp, cán bộ Thú y để thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định. Tuyên truyền, vận động người dân không tham gia, không tiếp tay cho các hành vi vi phạm như: Vận chuyển động vật, sản phẩm động vật trái phép; buôn bán, vận chuyển, giết mổ động vật, chế biến các sản phẩm không đảm bảo yêu cầu về phòng, chống dịch bệnh, an toàn thực phẩm; cung ứng, buôn bán các loại vắc xin, thuốc thú y không đảm bảo chất lượng.
Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy đàn gia súc, gia cầm được tiêm đúng, tiêm đủ các loại vắc xin theo đúng yêu cầu sẽ có tác dụng miễn dịch chống lại các dịch bệnh, giảm thiệt hại về kinh tế do gia súc, gia cầm ốm chết và bị tiêu hủy do dịch, góp phần bảo vệ sức khỏe của người dân và cả cộng đồng; Việc chấp hành tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn gia súc, gia cầm là quy định bắt buộc của Nhà Nước đối với mỗi cá nhân, hộ gia đình có chăn nuôi gia súc, gia cầm; Các trường hợp không chấp hành quy định tiêm phòng, làm phát sinh dịch bệnh nguy hiểm ở gia súc, gia cầm trên địa bàn xã phải chịu trách nhiệm trước pháp Luật thú y. Cụ thể:
1. Khoản 1. Điều 7 trong Nghị định 90 của Chính phủ, ngày 31 tháng 7 năm 2017 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực thú y: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000đ đến 300.000đ đối với hành vi không thực hiện việc phòng bệnh bằng vắc xin hoặc các biện pháp phòng bệnh bắt buộc khác cho động vật.
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các hành vi không tiêm phòng vắc xin phòng bệnh Dại cho động vật bắt buộc phải tiêm phòng (Theo khoản 2 Điều 7, Nghị định 04/2020).
3. Đối với những hộ không tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm không được hưởng chính hỗ trợ của nhà nước khi có dịch bệnh xảy ra.
Vì vậy, mỗi người dân cần nâng cao ý thức trách nhiệm chấp hành công tác tiêm vắc xin phòng chống dịch, bệnh cho đàn gia súc, gia cầm; Chủ động theo dõi lịch tiêm phòng cho gia súc, gia cầm phục vụ tiêm phòng bảo đảm cho đàn gia súc, gia cầm được tiêm đúng, tiêm đủ vắc xin theo quy định, để tránh gây thiệt hại về kinh tế gia đình và xã hội./.
Hoàng Lâm.
Nguồn tin: Hoàng Lâm.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập